Tên di sản : Nhà thờ họ Lê Minh (Nơi thờ Lê Văn Tiến – Nhân sĩ yêu nước, cựu tù Côn Đảo)
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3012/QĐ-UBND
Giới thiệu
Quy mô cấu trúc Nhà thờ gồm Cổng, Sân, nhà Bái đường và nhà Khách nằm trong một khuôn viên đất đai trên 300m, quay mặt về hướng đông nam (Cơ quan Tư vấn thiết kế công trình là Công ty Cổ phần Xây dựng và Tôn tạo Công trình Văn hoá – thành phố Hà Nội lập).
Theo thứ tự từ ngoài vào có các công trình sau:
Cổng: có kích thước chiều rộng 2,8m, dày 0,70m, cao 4,7m được xây theo kiểu dáng Nghinh môn chồng diêm, 2 tầng mái, lợp ngói mũi. Bốn góc của hai mái đều uốn cong, gắn kìm góc hình hoa lá cách điệu, khoảng cách cổ diêm ở mái trên và mái dưới trang trí bức đại tự nổi “Lễ tộc chi từ. Bờ dải, bờ nóc đắp vuông vức; đỉnh mái trên gắn hình mặt nguyệt. Ở mặt trước và sau của tường cổng được tạo dáng hình cột nanh; chân quỳ trang trí lá cúc cách điệu; trên bề mặt trang trí câu đối, thông tin cho chúng ta biết rõ công tích của các vị tiền liệt được thờ.
Bình phong: Trước nhà thờ là bức Bình phong đặt ở trung tâm sân, được làm bằng đá nguyên khối có chiều dài 2m, rộng 1,8m, cao 1,20m, dày 0,20m làm theo kiểu dáng hình cuốn thư. Trang trí trên Bình phong là hình kiếm, bút ở hai bên; trên đỉnh trang trí hình lưỡng long chầu nguyệt; dạ chân quỳ trang trí hình mặt hổ phù.
Sân: Có diện tích chiều dài 15,5m, chiều rộng 1,1m được lát gạch bát màu đỏ. Xung quanh là hệ thống tường rào được gắn hoa chanh ở bề mặt tường; đỉnh tường ở mặt trước tạo dáng mái; mặt trái và phải trát phẳng, tạo gờ chỉ ở các góc, đường cạnh; ở khoảng cách giữa tường cũng được gắn gạch hoa chanh để tạo nên sự mềm mại và thông thoáng.
Nhà thờ: Được đặt ở trung tâm khuôn viên đất đai, hài hoà với không gian của các công trình phụ cũng như thiên nhiên và làng mạc xung quanh. Sự phân bố như vậy vừa là biểu hiện mang yếu tố tâm linh, vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt cộng đồng dòng họ rộng rãi, thoáng đãng.
Về cấu trúc: nhà thờ được cấu trúc theo kiểu chữ Nhất (-), đầu hồi bít đốc, dựng trên nền cao khoảng 1m, có bậc Tam cấp đi vào. Kích thước của nhà thờ: chiều dài 10,3m, rộng 6,9m gồm 4 vì kèo làm bằng bê tông cốt thép sơn màu giả gỗ lim. Các bước gian: gian giữa rộng 2,5m, hai gian bên rộng 2,35m, gian chái rộng 1,5m.
Kết cấu của các vì kèo, nhìn trên mặt cắt gồm 3 hàng chân cột: cột cái ở phía sau, cột quân ở phía trước và cột con (cột hiên) sát giọt gianh. Hệ thống vì kèo kết cấu theo thức kiến trúc truyền thống: đầu quá giang nằm trên đuổi kẻ chuyền ăn mộng vào đầu cột quân ở phía trước chạy qua thân cột lớn ở phía sau và gác đầu lên tường hậu. Phía trên quá giang (tính từ đầu cột quân ở phía trước) là một kẻ chuyền ăn mộng vào cột trốn hình tròn đứng trên quá giang; họng cột trốn được liên kết mõm kẻ chuyền đỡ câu đầu; ở phía sau, đầu câu đầu ăn mộng vào đầu cột lớn. Phía trên câu đầu là hệ thống giá chiêng được cấu trúc gồm 2 đấu trụ đứng trên câu đầu vừa làm nhiệm vụ đỡ con rường nằm ngang đỡ nóc mái, vừa có chức năng liên kết hệ thống các con rường làm nhiệm vụ đỡ hoành tải mái trước và mái sau. Ở phía sau (tính từ cột cái đến trường hậu) là một kẻ ngồi ăn mộng vào đầu cột lớn, đuôi kẻ ăn mộng vào đầu cuối của quá giang làm nhiệm vụ đỡ 4 hoành tải đỡ mái.
Ở phía trước (tính từ cột quân ra cột hiên) là một kẻ chuyền được ăn mộng vào đầu cột hiên, mõm kẻ chạy dài ra phía trước đỡ tàu mái.
Với cấu trúc như trên, nhìn trên tổng thể, 4 vì kèo ở đây đều giống nhau về kiểu liên kết. Kết cấu này, chúng ta thường thấy ở những cặp vì đối xứng của 2 vì gian giữa đối với loại kiến trúc có cấu trúc 3 gian và 4 vì với cấu trúc 5 gian, đó là bộ vì trốn cột cái ở phía trước nhằm mục đích làm rộng công trình.
Nhà thờ được mở 3 cửa ra vào: cửa giữa rộng 2,50m, hai của bên rộng 2,35m; cánh cửa làm theo kiểu thượng song hạ bản bằng gỗ lim.
Ở phía ngoài: mái lợp ngói mũi, tường vì tạo dáng kiểu Tam Sơn và được đắp các đường gờ chỉ; mặt hồi ngoài tường vỉ đắp nổi hình mặt hổ phù; hai bên của bờ nóc đắp đấu trụ vuông gắn với kìm nóc làm theo kiểu đường triện.
Trang trí trong kiến trúc: đề tài trang trí trong ngôi Từ đường là hình ảnh các linh vật và hoa lá được đắp nổi bằng vật liệu xi măng trên các cấu kiện kiến trúc và chạm khắc đá (cột hiên, Bình phong). Bông cúc mãn khai với màu vàng rực rỡ tượng trưng tiêu biểu cho bốn mùa; Tứ linh - mặt hổ phù (mặt rã), mang ý nghĩa cầu mong cho cuộc sống no đủ, hạnh phúc; rồng vốn đã mang nhiều biểu trưng, ngoài biểu trưng cho vua, cho người nguồn gốc dân tộc, cho nguồn nước và sự phồn thịnh quốc gia, nó còn có ý nghĩa báo hiệu về điều lành, về sự hưng thịnh của đất nước; hình hoa sen tượng trưng cho sự cao quý...thể hiện nghệ thuật đắp phù điêu một cách tinh tế của các nghệ nhân.
Nhà Khách: nằm ngang (ở phía bên hữu nhà thờ chính), có diện tích 20m mới được phục dựng lại gồm 2 vì kèo gỗ có kiến trúc biến thể c���a vì kèo truyền thống: Quá giang gác tường, kèo suốt. Mái lợp ngói liệt, nóc quyết bình thường, bờ dải, bờ nóc đắp các đường gờ chỉ nổi.
Nhìn chung, nhà thờ họ Lê Minh về cơ bản được phục dựng theo “thức” kiến trúc Việt Nam có nguồn gốc từ nền kiến trúc dân gian. Nhưng ở đây, qua việc phục dựng lại, vật liệu xây dựng bộ khung được sử dụng bê tông cốt thép đã thay thế bộ khung gỗ để phù hợp với điều kiện lịch sử mới.
Bài trí đồ thờ:
Đồ thờ trong nhà thờ đã làm thiêng hoá trong cấu trúc thờ tự là những sản phẩm văn hoá vật thể chứa đựng ước vọng của con cháu trong dòng họ.
Ban thờ gian giữa: gồm 2 bệ thờ làm bằng chất liệu gạch, trát xi măng, ốp gạch men. Bệ thứ nhất giáp tường hậu có kích thước cao 2m, rộng 0,81m, dài 1,6m. Trên bệ thờ đặt tượng Tam thế. Bệ thờ thứ 2 cao 1,7m, dài 1,63m, rộng 0,90m. Ở giữa đặt long ngai bài vị cụ thuỷ tổ Lê Minh Dung, bên trái là ảnh cụ Lê Văn Tiến, bên phải là tượng cụ Lê Văn Tiến; tiếp đến là bộ lư hương đồng, hạc đồng, chân đèn đồng, bát hương sứ, mâm bồng, 2 bình hoa.
Ban thờ gian bên tả: gồm 2 bệ thờ làm bằng chất liệu gạch, trát xi măng, ốp gạch men. Bệ thờ thứ nhất giáp tường hậu có kích thước cao 1,7m, dài 1,63m, rộng 0,86m, đặt tượng Bác Hồ. Bệ thứ 2 có kích thước cao 1,41m, dài 1,39, rộng 0,90m, đặt bát hương.
Ban thờ gian bên hữu: gồm 2 bệ thờ xây bằng gạch, trát xi măng, ốp gạch men. Bệ thờ thứ nhất có kích thước cao 1,43m, rộng 0,37m, dài 1,83m đặt Bằng có công với nước của bà Đỗ Thị Khương. Bệ thờ thứ 2, cao 1,43m, dài 1,73m, rộng 0,90m, đặt tượng cụ Lê Quang Phấn và bà Đỗ Thị Khương.
Ban thờ ở sát tường vỉ (bên tả): làm bằng gỗ có kích thước cao 1,37m, dài 1,46m, rộng 0,59m; Trên tường đặt 5 khuông ảnh thờ của gia tiên.
Ban thờ sát tường vỉ (bên hữu) là một ban thờ bằng gỗ có chiều cao 1,28m, dài 1,27m, rộng 0,63m. Đặt ảnh thờ Liệt sĩ Đỗ Hồng Nam, chắt ngoại cụ Lê Văn Tiến và Liệt sĩ Lê Quang Tâm.
Ngoài các ban thờ chính thì trang trí trong nhà thờ cũng thể hiện tấm lòng thành kính của người đời sau với tổ tiên. Bức đại tự treo cao ở gian giữa với nội dung “Trung hiếu truyền gia” do Giáo sư – Anh hùng Lao động Vũ Khiêu tặng, cùng với bàn thờ được bố trí hài hoà tạo không gian rạng rỡ trang nghiêm.
Đây là những chứng tích lịch sử có giá trị rất lớn, liên quan đến các nhân vật lịch sử của dòng họ cần được bảo quản tốt để có cơ sở lập hồ sơ xếp hạng di tích lịch sử văn hoá.